Ung thư phổi được xếp vào nhóm ung thư khó phát hiện sớm. Bệnh tiến triển âm thầm, triệu chứng nghèo nàn khi bệnh nhân ho ra ra m.áu, ho dai dẳng… thì đã muộn.
Ung thư phổi là loại ung thư thường gặp nhất và cũng là nguyên nhân t.ử v.ong hàng đầu trên Thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo Globocan năm 2018, tại Việt Nam, ung thư phổi đứng hàng thứ 2 sau ung thư gan với 23,667 ca mắc.
Mặc dù đã có những tiến bộ vượt bậc trong sàng lọc, chẩn đoán và điều trị, nhưng vẫn có đến 80% bệnh nhân ung thư phổi nhập viện khi đã ở giai đoạn cuối. Bệnh nhân có các các triệu chứng như ho dai dẳng, ho ra m.áu, đau ngực, khó thở, sút cân hay triệu chứng của các cơ quan bị di căn như não, xương, gan, thượng thận… Khi đó, điều trị toàn thân bằng hóa chất, điều trị đích hay điều trị miễn dịch có hay không có kết hợp với xạ trị được xem xét sử dụng nhằm cải thiện triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian sống thêm cho người bệnh.
Điều trị đích là biện pháp sử dụng các thuốc có khả năng tác dụng vào tế bào ung thư dựa trên cơ sở của sự xuất hiện các đột biến gen như EGFR, ALK, ROS1… để điều trị ung thư mà hầu như không có tác dụng lên tế bào lành. Đây là biện pháp có thể được chỉ định dù thể trạng của bệnh nhân kém, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân có được cơ hội này.
Ung thư phổi là loại ung thư thường gặp nhất và cũng là nguyên nhân t.ử v.ong hàng đầu trên Thế giới cũng như ở Việt Nam
Điều trị miễn dịch gần đây nổi lên như một biện pháp đầy hứa hẹn để điều trị nhiều loại ung thư trong đó có ung thư phổi. Nhưng bên cạnh việc cần xét nghiệm biểu lộ của PD-1 hoặc PD-L1 thì đây cũng là một biện pháp điều trị đắt t.iền với đa số bệnh nhân ung thư tại Việt Nam và chưa được bảo hiểm y tế chi trả.
Vì vậy, hóa trị liệu vẫn là một biện pháp được sử dụng nhiều hơn cả, khi đó, đòi hỏi bệnh nhân cần có một thể trạng tốt để có thể dung nạp được liệu pháp này.
Tuy nhiên, một vấn đề rất lớn hiện nay đó là nhiều bệnh nhân dù thể trạng còn rất tốt, nhưng vì “có bệnh thì vái tứ phương”, nghe theo người này mách bảo, người kia chỉ lối mà từ bỏ các biện pháp điều trị đặc hiệu để sử dụng các phương thức khác như điều trị đông y, thực dưỡng hoặc tập pháp luân công để khỏi bệnh. Đây là các biện pháp chưa có bằng chứng khoa học về việc có thể điều trị khỏi ung thư.
Nhiều bệnh nhân sau một thời gian điều trị bằng các biện pháp không đặc hiệu này, ung thư tiếp tục tiến triển, thể trạng yếu đi, suy kiệt và khi quay trở lại bệnh viện thì đã “trễ” với các biện pháp điều trị đặc hiệu. Theo thống kê, có đến 30% bệnh nhân ung thư t.ử v.ong vì suy kiệt, suy dinh dưỡng trước khi t.ử v.ong vì căn bệnh ung thư. Đó là một điều rất đáng buồn.
Các phương pháp chẩn đoán ung thư phổi
Chẩn đoán sớm có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện, điều trị ung thư phổi kịp thời.
– Chụp X-quang ngực: là phương pháp chụp các cơ quan, xương bên trong lồng ngực. Phương pháp này có thể phát hiện bất thường hoặc khối u trên phổi nhưng có thể bỏ qua những khối u có kích thước quá nhỏ. Vì vậy, bên cạnh chụp X-quang ung thư phổi, người bệnh thường được chỉ định kết hợp với chụp CT lồng ngực.
– Cắt lớp vi tính lồng ngực: giúp bác sĩ phát hiện các bệnh lý ở xương sườn, màng phổi, nhu mô phổi, phế quản, mạch m.áu, tim, trung thất,… So với chụp X-quang, chụp CT có thể phát hiện được cả các khối u kích thước nhỏ, xác định tốt đặc điểm khối u, tình trạng hạch trung thất qua đó giúp đ.ánh giá giai đoạn bệnh.
– Nội soi phế quản: Được chỉ định cho hầu hết những trường hợp u có khối u phổi.
– Mô bệnh học: Là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định ung thư phổi. Các bác sĩ có thể sinh thiết lấy một mẩu khối u qua nội soi phế quản với u trung tâm hoặc sinh thiết xuyên thành ngực với u ngoại vi để làm xét nghiệm.
– Các chất chỉ điểm u như SCC, CEA, Cyfra 21-1, NSE tăng đóng vai trò định hướng đến ung thư phổi.
Người phụ nữ bất ngờ phát hiện ung thư phổi từ triệu chứng lạ ở vai
Theo bác sĩ điều trị, bệnh nhân này mắc ung thư phổi giai đoạn cuối đã di căn lên não, từ đó dẫn đến triệu chứng lạ ở vai.
Bà Liang là một người phụ nữ Trung Quốc, 59 t.uổi. Thời gian gần đây, vai phải của bà thường xuyên xuất hiện những đợt co giật ngắn. Lo ngại rằng mình mắc bệnh về thần kinh, bà đã đến bệnh viện để chụp cắt lớp não.
Kết quả là các bác sĩ đã phát hiện một khối u nhỏ trong não của bà Liang. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn, khi kết quả khám tổng quát chỉ ra bà còn có một khối u ở phổi đã ở giai đoạn cuối. Khối u não chỉ là khối u di căn và các tế bào ung thư cũng đã di căn sang nhiều vị trí khác trong cơ thể bà.
BS Lin Weiqun, người trực tiếp thăm khám cho bà Liang chia sẻ: “Các triệu chứng điển hình của ung thư phổi là ho, thở khò khè, ho ra m.áu, tràn dịch màng phổi. Tuy nhiên, chúng lại không được tìm thấy ở bà Liang. Có lẽ chính điều này đã khiến bệnh nhân phát hiện tình trạng của mình khi đã quá muộn”.
Triệu chứng khiến bà đi khám là co giật vai phải, lại không điển hình và thường dễ được liên hệ đến các bệnh thần kinh. Theo BS Lin, triệu chứng co giật ở bà Liang là do khối u di căn ở thùy đỉnh của não, khu vực này chịu trách nhiệm kiểm soát các chuyển động.
Ung thư phổi là một trong những loại ung thư nguy hiểm nhất. Ung thư phổi được chia làm 2 loại: Ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Bà Liang mắc ung thư phổi giai đoạn cuối đã di căn lên não
Trong đó, bệnh của bà Liang là ung thư phổi không tế bào nhỏ, với đặc điểm phát triển và di căn chậm hơn và chiếm khoảng 85% các trường hợp ung thư phổi.
“Với bà Liang chúng tôi chỉ định xạ trị và sử dụng thuốc trúng đích. Nếu đáp ứng điều trị, tiên lượng của bà Liang không phải quá xấu” – BS Lin cho hay.
Chuyên gia này còn chia sẻ thêm rằng, khi biết về tình trạng bệnh của mình, bà Liang một mực không tin, bởi bà chưa từng hút thuốc.
BS Lin nhấn mạnh rằng, hút thuốc mặc dù là yếu tố nguy cơ đầu bảng của ung thư phổi, nhưng vẫn còn nhiều tác nhân khác dẫn đến căn bệnh này, điển hình là ô nhiễm môi trường. Do đó, kể cả khi không hút thuốc, mọi người cũng nên tập thói quen tầm soát ung thư định kì, bởi ở giai đoạn đầu các triệu chứng của ung thư phổi không rõ rệt. Một khi đã có triệu chứng điển hình thì bệnh đã ở giai đoạn muộn và điều trị lúc này gần như không có hiệu quả.
Ô nhiễm môi trường là một trong những nguyên nhân gây ung thư phổi
Thông tin từ Bệnh viện K, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2,09 triệu người mắc mới và 1,76 triệu người t.ử v.ong do ung thư phổi. Năm 2018, Việt Nam có thêm hơn 23.000 người mắc ung thư phổi. Ung thư phổi là một trong những bệnh ung thư thường gặp và có tỷ lệ t.ử v.ong cao thứ hai chỉ sau ung thư gan.
Một trong những nguyên nhân chính khiến ung thư phổi trở thành vấn đề y tế nhức nhối của Việt Nam là vì nước ta có tỉ lệ hút t.huốc l.á ở mức báo động.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam được đ.ánh giá là một trong những quốc gia có tỷ lệ hút thuốc cao nhất thế giới với 56,1% nam giới và 1,8% nữ giới. Ngoài ra, tỷ lệ hút t.huốc l.á thụ động tại Việt Nam cũng rất cao, ước tính 67,6% người không hút thuốc bị phơi nhiễm tại nơi làm việc.