Trong cơ thể con người có vô số các bộ phận khác nhau, đảm nhận các chức năng không đồng nhất. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một bộ phận ‘bị lãng quyên” rất có ích cho phụ nữ giai đoạn bầu bí, đó là tuyến ức.
Nhóm nghiên cứu tại Đại học Y khoa Viên, Áo (MUV) do Giáo sư Josef Penninger đứng đầu vừa tìm thấy một bộ phận quan trọng lâu nay bị “bỏ quên” trong cơ thể, có khả năng bảo vệ mẹ và bé trong suốt giai đoạn thai kỳ. Đó là tuyến ức (thymus gland). Nó có khả năng ngăn ngừa sẩy thai và bệnh đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ. Với phát hiện này, các nhà khoa học cho biết họ đã giải đáp một trong những bí ẩn lớn nhất của hệ miễn dịch.
Phát hiện vai trò của tuyến ức đối với sức khỏe của mẹ và thai nhi.
Lâu nay, khoa học vẫn biết tuyến ức là cơ quan trung tâm của hệ miễn dịch, nhưng nó có tác dụng ra sao cho phụ nữ giai đoạn thai kỳ thì chưa hiểu hết. Qua nghiên cứu hormon nữ phát hiện thấy tuyến ức sản sinh loại tế bào chuyên dụng có tên “Tregs” làm thay đổi sinh lý khi mang thai.
Tuy nhiên, Tregs thực hiện tốt nhiệm vụ nó thì cần phải có một thụ thể trung gian gọi là RANK. Cơ quan thụ cảm đặc biệt này nằm trong một vùng của tuyến ức gọi là biểu mô. Nếu thiếu RANK, tuyến ức không thể sản xuất Tregs trong thời kỳ mang thai, khiến lượng Tregs trong nhau thai ít ỏi và làm tăng nguy cơ sẩy thai.
Các nhà khoa học đã loại bỏ các thụ thể RANK ở chuột mang thai. Kết quả, chuột thiếu RANK có nguy cơ sảy thai cao hơn. Và ngay cả chuột mẹ không bị sảy thai, thì con của chúng cũng dễ mắc bệnh đái tháo đường và thừa cân khi trưởng thành.
Trong khi đó, bổ sung tế bào Tregs cho những con chuột bị thiếu RANK đã giúp chúng cải thiện mọi vấn đề sức khỏe. Điều này đồng nghĩa, tuyến ức đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo phụ nữ có một thai kỳ khỏe mạnh mà lâu nay “bị bỏ quên’.
“Tuyến ức không chỉ thay đổi hệ miễn dịch của mẹ bầu để dễ tiếp nhận thai nhi, mà nó còn kiểm soát sức khỏe trao đổi chất của chính người mẹ” GS Penninger nhấn mạnh.
Thai nhi 38 tuần không đạp chỉ vì mẹ mắc bệnh này không biết
Tỷ lệ phụ nữ mang thai mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu không được phát hiện và điều trị thì sẽ gây nguy hiểm cho bà mẹ và thai nhi.
Mất con vì không biết đái tháo đường
Chị Đỗ Thị L. (36 t.uổi, trú tại Bắc Giang) bị tiểu đường thai kỳ. Khoảng hơn 1 tháng gần đây, chị L. thường xuyên bị đi tiểu nhiều, hay khát nước và có hiện tượng sút cân rõ rệt dù chị vẫn duy trì chế độ ăn uống dinh dưỡng đầy đủ dành cho bà bầu.
Khi chị L. không cảm nhận được thai nhi 38 tuần t.uổi “đạp” bụng mẹ nữa thì chị L. mới vội vàng đi viện khám.
Qua siêu âm, các bác sỹ thấy thai nhi đã c.hết lưu. Chị L. được chỉ định làm các xét nghiệm cần thiết và kết quả cho thấy chỉ số đường huyết lần 1 là 24 mmol/lít và lần 2 là 26 mmol/lít. Đây là mức đường huyết nguy hiểm ở phụ nữ mang thai bởi vì mức đường huyết bình thường chỉ từ 3,9 mmol – 6,5 mmol/lít. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thai nhi c.hết lưu.
Vì đường huyết của chị L. quá cao nên không thể mổ lấy thai, hơn nữa chị từng có t.iền sử mổ đẻ cách đây 5 năm, nếu mổ đẻ nguy cơ bị đờ tử cung rất cao, đẻ thường thì vỡ tử cung. Các bác sĩ đành quyết định điều trị hạ đường huyết bằng cách truyền insulin cho tới khi mức đường huyết trở về giới hạn bình thường thì tiếp tục theo dõi để cho cuộc chuyển dạ thai lưu diễn ra tự nhiên mà không can thiệp mổ lấy thai.
Ảnh minh hoạ
Bệnh không có dấu hiệu
PGS Nguyễn Khoa Diệu Vân – Phó Chủ tịch Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam, cho biết đái tháo đường thai kỳ đang ngày càng cao và rất nhiều thai phụ không phát hiện ra. Họ cũng giống chị L. chỉ đến bệnh viện trong tình trạng thai c.hết lưu, sảy thai mới biết là do đái tháo đường thai kỳ. 80% người bệnh không có triệu chứng, đây là điều đáng lo ngại. Thường bệnh chỉ biết được phát hiện qua sàng lọc tầm soát đái tháo đường thai kỳ.
Nguyên nhân dẫn tới đái tháo đường thai kỳ là do tình trạng bản thân thai tiết ra một số hooc-mon trong thời kỳ mang thai và hooc-mon này kháng insulin và insulin sinh ra từ tuyến tuỵ không được hấp thụ làm giảm hấp thụ đường m.áu gây nên đường trong m.áu tăng cao. Thời kỳ nặng nhất thường từ 24 đến 28 tuần mang thai.
Người người béo phì, người có người thân trong gia đình như bố mẹ, anh, chị em mắc đái tháo đường, phụ nữ bị buồng trứng đa nang… có nguy cơ cao hơn và cần tầm soát sớm hơn để xác định đái tháo đường thai kỳ.
Đối với người mẹ, tiểu đường thai kỳ dễ gây ra các biến chứng trong suốt quá trình mang thai cao hơn các thai phụ bình thường như rối loạn chuyển hóa, n.hiễm t.rùng tiết niệu, viêm đài bể thận, tổn thương mắt, mạch vành. Các biến chứng sản khoa như tăng huyết áp thai kỳ, t.iền sản giật, tăng tỷ lệ sảy thai, sinh non, sang chấn trong đẻ, ra m.áu sau đẻ, tăng tỷ lệ mổ lấy thai do thai to, tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn… và thậm chí là tăng nguy cơ tiểu đường cho những lần có thai sau (với tỷ lệ 30 – 69 % ở những lần có thai kế tiếp).
Đối với thai nhi, tiểu đường thai kỳ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thai nhi, khiến thai chậm phát triển, nguy cơ sảy thai tự nhiên, thai c.hết lưu hoặc dị tật bẩm sinh (với tỷ lệ 08 – 13%, cao gấp 02 – 04 lần so với nhóm không bị tiểu đường). Các dị tật thường gặp là tổn thương hệ thần kinh, tim, hệ xương, thận, tiết niệu, làm tăng tỷ lệ t.ử v.ong chu sinh (chiếm 20 – 30 %); tăng tỷ lệ suy hô hấp, vàng da bệnh lý ở trẻ sơ sinh, đặc biệt thai nhi dễ bị hạ đường huyết và sang chấn khi sinh như gãy xương đòn, trật khớp vai do phát triển quá mức so với t.uổi thai.